Suy thoái và lạm phát: ‘Cái giá’ nào đắt hơn?
Kinh tế Mỹ nhận về sự hoài nghi lớn với không ít nhận định quốc gia này đã rơi vào suy thoái sau khi chứng kiến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã đi lùi hai quý liên tiếp. Tuy nhiên, các chỉ dấu kinh tế đã cho ra những kết quả trái ngược, và làm gia tăng mức độ bất ổn đối với triển vọng nền kinh tế số một thế giới trong thời gian sắp tới.
Kinh tế Mỹ nhận về sự hoài nghi lớn với không ít nhận định quốc gia này đã rơi vào suy thoái sau khi chứng kiến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã đi lùi hai quý liên tiếp. Tuy nhiên, các chỉ dấu kinh tế đã cho ra những kết quả trái ngược, và làm gia tăng mức độ bất ổn đối với triển vọng nền kinh tế số một thế giới trong thời gian sắp tới.
Và tâm điểm tranh cãi giữa các chuyên gia kinh tế và các nhà hoạch định chính sách chính đó là câu hỏi mang tính quyết định tới tương lai của nước Mỹ: Lạm phát hay suy thoái, điều gì tồi tệ hơn.
Tuy nhiên, đã không có phương án nào nhận được sự ủng hộ tuyệt đối.
Qua nhiều lần tăng mạnh lãi suất, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) khiến cho nhiều người thiên về quan điểm một cuộc suy thoái là điều rất cần thiết để có thể sớm kiểm soát đà tăng giá “chóng mặt” trong thời gian vừa qua, với tốc độ lớn nhất từng ghi nhận trong hơn bốn thập kỷ.
Ngược lại, cũng không ít nhà kinh tế và lập pháp phản pháo lại ý kiến trên. Họ cho rằng liều thuốc mang tên suy thoái lại là cái giá quá đắt để kéo giảm lạm phát.
Và lý tưởng nhất, Fed cần phải tránh cả hai viễn cảnh trên. Đó cũng chính là điều mà ngân hàng trung ương Mỹ gọi mà một cú “hạ cánh mềm”, đồng nghĩa với việc cơ quan này sẽ tăng lãi suất lên ngưỡng đủ nhằm để kéo giảm nhu cầu thị trường mà không hoàn toàn xóa sổ nó. Đó chính là kết quả mỹ mãn nhất dù Fed thừa nhận đạt được mục tiêu này là một thách thức không hề dễ dàng, thậm chí ngày càng phức tạp hơn.
“Những động thái của Fed đến thời điểm hiện tại chưa gây ra một cuộc suy thoái, nhưng mà họ đang làm gia tăng khả năng nền kinh tế suy thoái trong thời gian tới”, Bivens, Giám đốc nghiên cứu tại Viện Chính sách Kinh tế (EPI), đã chia sẻ trong đầu tháng 8.
Hiện tại, có hai khả năng lớn nhất có thể xảy ra. Thứ nhất, đó là lạm phát sẽ tiếp tục tăng cao như chúng ta đang được chứng kiến trong khoảng một năm trở lại đây. Và thứ hai chính là một cuộc suy thoái, giúp kiểm soát đà tăng giá cả nhưng bên cạnh đó làm tăng tỷ lệ thất nghiệp cũng như kéo giảm tăng trưởng thu nhập của người lao động.
Phe lạm phát
Bivens chính là người ủng hộ quan điểm “lạm phát cao là điều tồi tệ nhưng suy thoái thậm chí còn tồi tệ hơn”. Lý do là bởi vì suy thoái sẽ có tác động lớn tới thị trường lao động. “Một cuộc suy thoái đồng nghĩa nền kinh tế của bạn trở nên tụt hậu”, ông đã chia sẻ với CNN Business.
Lạm phát rõ ràng tác động tiêu cực lên thu nhập thực tế của người tiêu dùng, đó lại là điều không dễ chịu chút nào. Chỉ số giá tiêu dùng tại Mỹ tăng lên 9,1% trong tháng 6/2022 so với cùng kỳ năm trước, trong khi tăng trưởng lương của người lao động chỉ tăng 5,3%. Tuy nhiên, Bivens đã chia sẻ “điều duy nhất mà chúng ta biết về các cuộc suy thoái là chúng kéo giảm tăng trưởng thu nhập nhanh hơn là lạm phát”.
Một trong những luận điểm mà những người phản đối lạm phát đưa ra đó chính là hiện tượng này có thể gây ra một vấn đề mang tính tâm lý. Một khi quan điểm giá cả không suy giảm ăn sâu vào tâm lý của người tiêu dùng, nó hoàn toàn có thể tạo ra một giai lạm phát cố kết kéo dài, khó có thể phá vỡ. Đây không phải là vấn đề có thể coi nhẹ. Nhưng theo đánh giá từ Bivens, kinh tế Mỹ vẫn chưa rơi vào tình trạng đó.
Tại Mỹ, lạm phát neo ở ngưỡng 2% trong phần lớn thời gian của bốn thập kỷ qua. Chính vì điều đó, người dân quốc gia này sẽ không cho rằng lạm phát ở ngưỡng 9% sẽ kéo dài.
Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren chính là một nhân vật nổi tiếng ủng hộ quan điểm lạm phát tốt hơn suy thoái, đã cho rằng nguyên nhân cho giai đoạn lạm phát hiện tại, trong đó gồm cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng và xung đột Ukraine, không nằm trong tầm kiểm soát của Fed.
Lãi suất cao sẽ không thể giúp kiềm chế giá năng lượng, ông chia sẻ quan điểm trong một bài báo đăng tải trên tờ Wall Street Journal trong tuần trước.
Khi Fed tăng lãi suất, thì chi phí các khoản vay sẽ trở nên đắt đỏ hơn đối với người dân và doanh nghiệp. Điều đó sẽ khiến cho mọi người chi tiêu ít hơn, các doanh nghiệp cắt giảm tuyển dụng, giảm giờ làm hoặc là sa thải nhân viên một khu nhu cầu thị trường suy giảm mạnh.
“Điều đó khiến cho hàng triệu người nhận được mức thu nhập thấp hơn hoặc tệ hơn là không nhận được gì”, ông đã viết.
Phe suy thoái
Một bộ phận khác cho rằng các cuộc suy thoái, mặc dù không phải là một viễn cảnh đáng chờ đợi, nhưng không nhất thiết là một thảm họa. Họ cho rằng những cuộc khủng hoảng “có ích”.
Những người ủng hộ suy thoái tìm đến sự kiện tồn tại trong những năm 70 của thế kỷ trước, thời điểm lạm phát leo thang lên ngưỡng 14% vào năm 1980 và chỉ có thể bị chặn đứng bằng mức lãi suất cao tới “đau đớn” và hai cuộc suy thoái trong những năm đầu thập niên 80.
“Nước Mỹ cần một cuộc suy thoái nhẹ ở thời điểm hiện tại, tuy nhiên một cuộc suy thoái nghiêm trọng như dưới thời Cựu Chủ tịch Fed Volcker đó là điều cần thiết để có thể phá vỡ xung lực tăng của lạm phát nếu như kỳ vọng lạm phát trở nên cố kết”, theo Noah Smith.
Nhưng suy thoái lại luôn là một điều xấu? “Không hẳn!’, Lakshman Achuthan, nhà đồng sáng lập Viện nghiên cứu chu kỳ kinh tế (Economic Cycle Research Institute), đã trả lời.
“Các cuộc suy thoái có thể được xem là một sự kiện ‘dọn dẹp’ nền kinh tế, giúp loại bỏ đi những mô hình kinh doanh thiếu hiệu quả, và dọn chỗ cho các doanh nghiệp có tiềm năng”, ông đã chia sẻ trong một email gửi tới CNN Business. “Hiện tại, nền kinh tế đã thay đổi nhiều sau đại dịch và không ít cơ hội kinh doanh mới đã mở ra”, ông nói.
Ông đã nhắc tới một số doanh nghiệp nổi bật ra đời sau các giai đoạn suy thoái, ví dụ như Airbnb (2008), Uber và WhatsApp (2009). Các công ty này nổi lên từ sau một trong những giai đoạn suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử.
Hiện tại, những tranh luận liên quan đến chủ đề nước Mỹ đã rơi vào suy thoái hay chưa chỉ mang tính chất hình thức, tại vì kết luận cuối cùng sẽ thuộc về NBER. Nhưng không thể phủ nhận, nền kinh tế số một thế giới cho thấy dấu hiệu đang chững lại khi nhu cầu nhà ở suy giảm và niềm tin người tiêu dùng đi xuống.
Và nếu mà suy thoái có thực sự xảy ra, Chính phủ Mỹ sẽ khó lòng chi tiêu mạnh tay như trong giai đoạn hai năm trước đó, vì đó chính là một bài học ‘đắt giá’ đối với họ.
nguồn :nguoidonghanh