Bộ Tài chính: Tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam có xu hướng giảm dần
Năm 2022, trong bối cảnh nhiều quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm, Việt Nam đã được hai tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s và S&P nâng hạng tín nhiệm quốc gia, tổ chức Fitch giữ nguyên mức xếp hạng tín nhiệm.
Theo bản tin nợ công số 16 của Việt Nam giai đoạn 2018-2022 vừa được Bộ Tài chính công bố thì tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã có xu hướng giảm dần thời gian qua.
Tính đến hết năm 2022, nợ công tương đương 37,4% GDP. So với GDP, nợ nước ngoài tính tới hết năm 2022 khoảng 36,1% GDP.
Đặc biệt trong giai đoạn 2021-2025, trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng Bộ Tài chính cho biết rằng việc điều hành chính sách tài khóa tích cực, linh hoạt, có trọng tâm, trọng điểm đã góp phần tích cực tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ phục hồi kinh tế, trong khi vẫn cải thiện được cân đối ngân sách nhà nước và các chỉ tiêu nợ công.
Triển khai Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch Tài chính Quốc gia và Vay, Trả Nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025, đến nay các mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu định lượng Quốc hội đề ra đều đạt.
Giai đoạn 2021-2023, tổng mức vay của Chính phủ đạt 42,9% kế hoạch. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ đạt 53,3% kế hoạch. Việc rút vốn các khoản Chính phủ vay về cho vay lại đảm bảo trong hạn mức.
Kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ năm 2021, năm 2022, năm 2023 đảm bảo mục tiêu 9-11 năm, theo Nghị quyết 23/2021/QH15. Tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh chính phủ năm sau đảm bảo không vượt quá tốc độ tăng GDP danh nghĩa năm trước.
Các khoản vay chính phủ bảo lãnh cho dự án đầu tư chưa sử dụng đến hạn mức rút vốn ròng. Tổng mức vay của ngân sách địa phương đạt 26,3% kế hoạch được Quốc hội phê duyệt.
Nghĩa vụ trả nợ của chính quyền địa phương đạt 41,1% kế hoạch Quốc hội phê duyệt. Các chỉ tiêu an toàn nợ từng năm giai đoạn 2021-2023 đảm bảo trong các mức trần và ngưỡng an toàn được phê duyệt.
Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý Nợ và Tài chính Đối ngoại (Bộ Tài chính) nhận định giai đoạn 2021-2023, quản lý nợ công đã đạt được một số kết quả nổi bật như an toàn nợ công được đảm bảo trong phạm vi mức trần, ngưỡng cảnh báo được Quốc hội phê duyệt.
Đảm bảo huy động vốn vay cho ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển. Thực hiện thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.
“Năm 2022, trong bối cảnh nhiều quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm, Việt Nam được hai tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s và S&P nâng hạng tín nhiệm quốc gia, tổ chức Fitch giữ nguyên mức xếp hạng tín nhiệm,” ông Trương Hùng Long nói.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu còn có nhiều biến động và thách thức có ý nghĩa hết sức tích cực, góp phần nâng cao uy tín quốc gia, tạo hiệu ứng lan toả cho toàn bộ nền kinh tế, có tác động giảm chi phí vay của Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, thu hút thêm các nguồn vốn từ các nhà đầu tư tiềm năng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Tại một hội thảo vừa diễn ra gần đây, ông Andrea Coppola – Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho biết Việt Nam đã có những cải cách quan trọng về quản lý nợ công bao gồm tăng cường khung pháp lý và quản lý nợ công…
Tuy nhiên, việc quản lý nợ công của Việt Nam vẫn gặp phải một số khó khăn như việc viải ngân vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu, tiến độ đề ra, nhất là đối với vốn ODA.
Việc tổ chức thực hiện các chương trình dự án về cơ bản đạt mục tiêu đề ra, nhưng có dự án triển khai còn chậm, dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện.
Bên cạnh đó, áp lực tăng vay, điều kiện thị trường vốn quốc tế và trong nước không thuận dẫn đến mặt bằng lãi suất tăng, phản ứng chính sách của các nước cũng gây sức ép giảm giá của đồng Việt Nam ảnh hưởng đến nghĩa vụ trả nợ, đặc biệt đối với nợ bằng USD và rủi ro cho việc thực hiện các chỉ tiêu an toàn nợ công, nợ nước ngoài quốc gia.
Do đó, để tăng cường quản lý và triển khai hiệu quả kế hoạch vay, trả nợ công giai đoạn 2024-2025, Bộ Tài chính kiến nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý ngân sách nhà nước, đầu tư công, đồng bộ với hoàn thiện khuôn khổ quản lý nợ công, trong đó có việc khắc phục rào cản, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân; nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư công; hình thành cơ quan quản lý nợ thống nhất trong Chính phủ và Bộ Tài chính theo đúng Nghị quyết 07-NT/TW chủ trương giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước quản lý nợ công 2016.
Theo ông Andrea Coppola, Việt Nam cần phải cải cách thể chế tạo điều kiện cho việc huy động nợ công, trên cơ sở đó hỗ trợ phát triển thị trường vốn trong nước và góp phần quản lý ngân sách hiệu quả.
Nguồn: Vietstock